412-THỰC HIỆN SỐNG MƯỜI ĐIỀU LÀNH
Kinh A-Hàm dạy: “Bệnh
sắc dục dùng bất tịnh trị”. Thực vậy, đứng trước sắc đẹp phụ nữ,
khi tâm tham dục khởi, chúng ta phải dùng pháp quán thân bất tịnh để đối trị.
Nghĩa là phải suy tư quán xét cho thấu đáo tất cả vạn hữu đều có sắc tướng bất
tịnh, dễ ô nhiễm, sinh ra mùi hôi thúi ghê tởm, dù cho chúng có những sắc tướng
khêu gợi, khiến cho tâm tham sắc dục dễ nổi lên cũng đều là bất tịnh.
Muốn làm chủ
được tâm tham sắc dục, không có pháp môn nào để chế ngự hơn là kinh nghiệm bản
thân. Phải trực tiếp mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi mùi, tay sờ mó vào sắc tướng
của đối tượng đang phơi bầy trước mắt ta những hình ảnh ghê tởm
uế trược, hôi thúi và còn nhiều sự bất tịnh khác nữa. Nhờ có trực tiếp như vậy,
nên khi vừa thấy sắc là ta thấy ghê tởm ngay liền.
Muốn chế ngự
và hàng phục tâm sắc dục, điều tối quan trọng là phải thông suốt: “Ở
đâu có khoái lạc, ở đó có khổ đau”. Sự đau khổ nhắc cho chúng ta
thức tỉnh trong sự mong cầu khoái lạc.
Xét về thân
và tâm của mình, từ xương, răng, da, tóc, đờm nhớt, máu mủ, thảy đều bất tịnh.
Về phần tinh thần, ta cũng dễ bị ô nhiễm, dính mắc các sắc tướng vạn hữu, vì thế
chúng ta càng khởi tâm tham dục lạc thì càng thọ vô lượng thứ đau khổ.
Người sống với
Mười Điều Lành phải thể hiện đúng Mười Điều Lành của Phật dạy, và còn phải nhìn
thấu suốt thực chất sắc tướng của vạn hữu đang vây quanh chúng ta.
Người
mang bệnh sân hận nặng muốn đối trị phải dùng từ tâm, nghĩa là chúng ta phải biết đem
lòng từ bi tha thứ và thương yêu những kẻ lầm lỗi, những người hung ác, gian
tham, tật đố, v.v… Tại sao vậy? Vì họ là người thiếu giáo dục đạo đức, không
được ánh sáng chân lý soi chiếu vào tâm tư họ, nên đời sống họ luôn luôn bám chặt
vào vật chất, chịu nhiều thứ đau khổ.
Chúng ta là
người sống với Mười Điều Lành thì phải thấu rõ lý nhân quả, thường dùng chánh
kiến và luôn thực hiện LÒNG THƯƠNG YÊU đối với mọi người. Nhờ vậy lòng đau khổ,
sự giận hờn mới chấm dứt.
Ý thức được
sự ích kỷ, nhỏ mọn của mình là thuốc độc giết chết tâm mình, chỉ có LÒNG YÊU
THƯƠNG mới cứu chúng ta sống an vui.
Muốn trị
bệnh ngu si mà không chịu học Phật pháp, thì không làm sao có trí tuệ giải
thoát, không thể làm chủ được tư tưởng của mình và thấu suốt được vạn hữu. Vả lại, người ngu si không thể
nào biết áp dụng phương tiện của đức Phật dạy. Bởi vậy kẻ ngu si không đủ trí
hiểu biết, luôn luôn sống một đời đầy đau khổ, sân hận, lúc nào cũng nô lệ cho
vật chất.
Người sống với
Mười Điều Lành là phải biết dùng pháp môn quán của đức Phật đã giảng dạy suốt
con đường “A-Hàm”, tức “Nhị Thừa”. Pháp môn này dùng để đối trị tất cả tư tưởng
phiền não. Khi thấu suốt con đường quán của Nhị Thừa, chúng ta mới thấu rõ là tất
cả hiện tượng vạn vật thiên nhiên trong vũ trụ đều do duyên hợp tạo thành, chớ
không do một đấng vạn năng nào biến hóa ra.
Xét cho cùng
tột về cuộc sống của chúng ta, ta mới thấy ngã không, người
không và vạn hữu đều không. Kinh A-Hàm dạy: “Này Thích Đề Hoàn Nhơn!
Như vậy, tất cả hiện tượng đều quy về không: không ta, không người, không thọ mạng,
không sĩ phu, không hình tướng, không nam nữ”.
Ở đây, chúng
ta nghe đức Phật dạy tất cả hiện tượng trong thế gian đều quy về không: không
ta, không người, không thọ mạng, không sĩ phu, không hình tướng, không nam nữ;
thế mà mọi vật trước mắt chúng ta sờ sờ mà bảo là không, thì hóa ra lời dạy kia
phi lý và mâu thuẫn với chính nó hay sao?
Muốn rõ lý sắc
không, chúng ta phải có sự tư duy cho tường tận mới thấy vạn hữu là
không. Ví dụ, muốn dựng một cái nhà phải do nhiều thứ hợp lại như kèo,
cột, vách lá, phên, cửa, đòn dông hợp lại, tạo nên một cái nhà. Nếu lấy một cây
cột mà bảo đó là cái nhà thì không đúng.
Câu chuyện
Vua Malinda hỏi Tỳ kheo Nagasena trong Kinh Malinda:
- Thưa Đại đức! Quý danh Ngài là
gì?
- Tâu bệ hạ! Người ta gọi tôi là
Nagasena, nhưng không có thật tôi.
Nhà vua hỏi:
- Nếu không có thật NGÃ, thì ai
cúng dường, ai truyền giáo, ai tham thiền, ai thực hành
giáo lý và ai tu chứng Niết Bàn? Vậy cái gì mới thực là Nagasena? Hay tóc
trên đầu là Nagasena chăng?
- Tâu bệ hạ! Không phải tóc là
tôi.
- Lông nơi thân là Nagasena chăng?
- Tâu bệ hạ cũng không.
- Vậy thì sự cảm xúc, sự nhận biết
vui buồn là Nagasena chăng?
- Tâu bệ hạ cũng không.
- Vậy thì ngũ uẩn, tứ đại là
Nagasena chăng?
- Tâu bệ hạ cũng không.
- Như thế ngoài thân còn cái gì là
Nagasena chăng?
- Tâu bệ hạ cũng không có cái thân
nào khác ngoài Nagasena.
Vua
Malinda hỏi xong, Nagasena hỏi lại:
- Tâu bệ hạ! Ngài đến đây bằng gì?
- Bạch Đại đức! Trẫm đến đây bằng
xe.
- Vậy bệ hạ có thể giải thích xe
là gì chăng? Có phải gọng là xe chăng?
- Không phải thế.
- Cái trục lăn có phải là xe chăng?
- Bạch Đại đức không.
- Hai bánh có phải là xe chăng?
- Cũng không.
- Vậy nhà vua nói các thứ đó có cái
gì là xe không?
- Cũng không.
Câu chuyện
vua Malinda cho chúng ta thấy, rõ ràng Phật giáo chủ trương con người không có
bản ngã. Sinh mạng của con người chỉ kết hợp do tứ đại và tâm thức. Hay nói một
cách khác hơn, con người do duyên hợp bởi đời sống vật chất và tâm lý. Đời sống
vật chất gọi là sắc uẩn, đời sống tâm lý gọi là thọ, tưởng, hành và thức uẩn; gọi
chung là Ngũ Uẩn.
Đứng về
phương diện không gian, vạn hữu trong vũ trụ vốn giả hợp; còn về phương diện thời
gian thì vạn hữu vốn sanh diệt không ngừng. Cho nên thân ngũ uẩn tạm có gọi là
sanh mệnh chúng sanh, khi ngũ uẩn tan rã thì gọi là sanh mạng chúng sanh chấm dứt
hay chết.
Vạn hữu mượn
danh mà đặt tên, chớ không có thực tên, cũng như cái chúng ta thấy gọi là xe
thì nó đâu có một bản thể chính yếu, ngoài các bộ phận như gọng, bánh, trục,
căm, v.v… thì xe không thành hình được. Xe chỉ là một danh từ để chỉ sự kết hợp
của các bộ phận ấy mà thôi. Tôn giả Tu Bồ Đề còn giảng những ví
dụ giải thích cho chúng ta thấy vạn hữu do duyên hợp tạo nên, khi hết duyên thì
duyên tan; nó sẽ hoại diệt. Ví như cây cổ thụ xum xuê tàng lá, một cơn gió to
cành lá phải xác xơ. Một vườn cây đang kết hoa nẩy nụ làm quả, một trận mưa đá,
tuyết rơi làm hư hoại tất cả. Đó là duyên tan. Một cơn mưa to trút xuống, các
cây cành đang héo úa gặp mưa liền đâm chồi nẩy tược. Đó là duyên hợp. Khéo quán
xét, chúng ta đào sâu vào sự bất động của vạn hữu, ta mới thấy rằng bệnh tật
không từ đâu sanh, chẳng phải thân sanh mà cũng chẳng phải ý sanh. Vì thế, bệnh
tật không phải do thân hay do ý, mà chính là duyên hợp tạo nên. Pháp do duyên
mà có, duyên hợp là động, động thì pháp sanh.
Pháp pháp
tự diệt, nghĩa là hết duyên thì pháp tự hoại diệt, tự trở về sự bất động của
nó. Kinh A-Hàm
dạy: “Này Thích Đề Hoàn Nhơn! Pháp pháp loạn động, pháp pháp tự diệt.
Ta trước kia mắc bệnh đau đớn khổ sở, ngày nay đã trừ được, không còn bệnh khổ”. Lời
dạy của Tôn giả Tu Bồ Đề, chúng ta nhận thức như thế nào? Có phải chăng khi suy
tư quán xét liền thấu rõ cội nguồn của bệnh tật là hết bệnh chăng? Hay một
duyên cớ gì mà ông Tu Bồ Đề bảo bệnh ông đã hết?
Khi dùng
pháp QUÁN để thấu suốt cội nguồn của bệnh tật, để rõ được
nguyên nhân này chỉ do duyên hợp nhiều đời và cũng như ngay trong đời hiện tại
đang tạo tác. Nhờ thấu rõ cội nguồn của bệnh tật, nên tâm tư không còn lo ngại
sợ sệt, thường nhìn thẳng vào bệnh tật, lòng không chút sợ hãi lo lắng. Đủ
duyên hợp lại thành bệnh tật, khổ đau, vui buồn, thương ghét, giận hờn… Hết
duyên tất cả phiền lụy đều tan hết.
Thấu suốt được
lý này, hành giả phải chấp nhận bệnh tật hoặc tai nạn, không bao giờ sợ hãi và
tìm cách trốn tránh, lúc nào cũng vui vẻ trả nghiệp và luôn luôn tạo NGHIỆP
LÀNH. Do lòng an vui chấp nhận các NGHIỆP KHỔ mà tinh thần dũng mãnh,
can đảm chịu đựng những thử thách để rồi vượt qua, NGHIỆP KHỔ dần dần
tan biến.
Nói đến
duyên hợp, duyên tan mà không nói đến NHÂN QUẢ là một điều thiếu sót quá lớn.
Nhân quả là do NGHIỆP LÀNH hay NGHIỆP ÁC mà có. Muốn đối trị quả khổ thì phải
thấu lý nhân quả, tức là biết rõ quả THIỆN ÁC đang chủ động tác động vào đời sống
con người, khiến cho con người cực khổ thất điên bát đảo.
Vậy chúng ta
phải thường hằng sống với Mười Điều Lành, phải cố gắng gieo NHÂN LÀNH. Khi
NHÂN LÀNH đầy đủ thì sự phiền não, đau khổ sẽ chấm dứt. Muốn cứu nguy
bệnh tật của thân, mưu tìm chân hạnh phúc cho gia đình thì phải
sống với Mười Điều Lành. Sống với Mười Điều Lành là chuyển từ NGHIỆP ÁC thành
NGHIỆP THIỆN, chuyển điều dữ thành điều lành, khiến cho đời sống chúng ta hoàn
toàn được thuận duyên. Nhờ đó mà cuộc hành trình về XỨ PHẬT không còn trở ngại
nữa.
Muốn sống với
Mười Điều Lành mà thiếu trí tuệ thì không bao giờ thực hiện được việc này. Muốn
có trí tuệ chúng ta phải học Phật pháp; nhờ học Phật pháp trí tuệ mới sáng suốt,
mới chánh kiến giải thoát, nhờ đó mà Phật pháp mới thấm nhuần. Nhờ đó, tâm
chúng ta xuất hiện LÒNG YÊU THƯƠNG; nhờ LÒNG YÊU THƯƠNG mới dễ thực hiện đức nhẫn
nhục; nhờ có đức nhẫn nhục chúng ta mới thể hiện sống với Mười Điều Lành dễ
dàng. Chỉ có sống với Mười Điều Lành thì quả ác mới chấm dứt, cuộc sống mới được
an vui, hạnh phúc.
Tóm lại, con
người muốn thoát khỏi bệnh tật khổ đau, tai nạn hiểm nghèo thì không có phương
tiện nào hay pháp môn nào mau chóng bằng pháp môn sống với Mười Điều Lành. Dù
thuốc hay thầy giỏi cũng không tránh khỏi thân bệnh, dù các bậc vua chúa hay
các y sư giỏi nhất thế gian cũng không thoát khỏi bệnh tật và cũng phải chịu
chung luật sanh tử.
Thế nên học
Phật pháp mà biết khôn khéo áp dụng vào đời sống hằng ngày, thì thân bệnh sẽ
không còn nữa và tâm thường được an vui.
Chúng ta hãy
nghe bài kệ của Tôn giả Tu Bồ Đề, để gắng công tu tập sống với Mười Điều Lành:
“Hãy
nói như lời này
Căn bản
thấy đầy đủ
Người
trí được an ổn
Nghe
Pháp dứt các bệnh”
(Kinh
Tăng Nhất A-Hàm)
Chúc quý vị
tu tập thành công, để luôn luôn sống được an vui, hạnh phúc.
HẾT

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét